Khu công nghiệp Dược - Sinh học đầu tiên ở Việt Nam

Xây dựng ngành dược Việt Nam phát triển, trở thành ngành công nghiệp mũi nhọn sẽ góp phần vào sự phát triển kinh tế – xã hội, tăng lợi thế cạnh tranh của Việt Nam. Việc ra đời một khu công nghiệp dược – sinh học đầu tiên ở Việt Nam, đặt tại tỉnh Thái Bình, là một dấu mốc quan trọng để hiện thực hóa tham vọng ấy.

Phát triển khu công nghiệp dược – sinh học là nhiệm vụ rất quan trọng, được Thủ tướng Chính phủ và Bộ Y tế rất quan tâm. Thái Bình là địa phương có vị trí và các điều kiện phù hợp nhất để thành lập khu công nghiệp dược – sinh học đầu tiên của Việt Nam tại khu vực phía Bắc.
MH-1.jpg


Bà Võ Thị Tuấn Anh, Chủ tịch Newtechco Group​

Theo Quyết định 1976/QĐ-TTg ngày 30-10-2013 của Thủ tướng Chính phủ “Phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển dược liệu đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030”, vùng đồng bằng sông Hồng là một trong tám vùng dược liệu trọng điểm của Việt Nam. Một trong tám tỉnh thành thuộc vùng đồng bằng sông Hồng có nhiệm vụ phát triển 20 loại dược liệu, có 12 loại bản địa, trên diện tích 6.400 héc ta này là tỉnh Thái Bình. Hiện tỉnh này đã có vùng trồng cây dược liệu ở các huyện Quỳnh Phụ, Hưng Hà, Tiền Hải, Vũ Thư, Thái Thụy với các loại cây như đinh lăng, cà gai leo, dây thìa canh, nghệ, ngưu tất, xạ can, hoài sơn, địa hoàng, ích mẫu…

Việc phát triển vùng dược liệu tập trung ở tỉnh Thái Bình đã giúp thu nhập của nông dân tăng gấp 4-5 lần so với trồng cây lúa, tạo thêm việc làm cho nhiều người dân khi nông nhàn, và cũng tạo nền tảng vững chắc cho sự ra đời của khu công nghiệp dược – sinh học đầu tiên của Việt Nam ngay tại tỉnh nhà.

Ông Nguyễn Khắc Thận, Phó bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Thái Bình, khẳng định việc cho ra đời khu công nghiệp dược – sinh học là dự án trọng điểm của tỉnh Thái Bình và có ý nghĩa lớn đối với ngành y tế Việt Nam. Tỉnh Thái Bình sẽ vào cuộc tích cực, chỉ đạo các sở, ban, ngành, địa phương phối hợp, hỗ trợ nhà đầu tư nghiên cứu, thực hiện hoàn thiện các bước quy trình dự án, bảo đảm giải phóng mặt bằng, sẵn sàng các điều kiện để triển khai dự án hiệu quả.

Quy mô lớn, hiện đại, đồng bộ

Theo quy hoạch, khu công nghiệp dược – sinh học có diện tích hơn 345 héc ta, được xây dựng tại bốn xã An Vinh, Quỳnh Xá, Quỳnh Trang và Đông Hải của huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình. Dự án được quy hoạch gồm: khu nhà máy sản xuất, khu nghiên cứu đào tạo, khu nghiên cứu dược liệu, khu logistics – kho cảng, khu hạ tầng kỹ thuật, khu công cộng – dịch vụ, khu nhà ở chuyên gia và công nhân.
MH-2.jpg


Mô hình KCN Dược – Sinh học đầu tiên của Việt Nam được trưng bày tại tọa đàm về ngành công nghiệp Dược.​

Liên danh các nhà đầu tư khu công nghiệp này gồm Quỹ Makara Capital Partners Pte,.Ltd, Sakae Corporate Advisory Pte,.Ltd và Tập đoàn Newtechco. Quỹ Makara Capital Partners Pte.,Ltd có hơn 30 năm kinh nghiệm dịch vụ tài chính toàn cầu, chuyên quản lý quỹ, cơ cấu và cấp vốn, với các lĩnh vực thế mạnh, như đổi mới sáng tạo, cơ sở hạ tầng và năng lượng. Ông Ali Ijaz Ahmad, Tổng giám đốc Quỹ Makara Capital Partners Pte.,Ltd, cho biết “trước cơ hội đón làn sóng chuyển dịch đầu tư của các tập đoàn công nghệ thế giới từ Trung Quốc sang Đông Nam Á, Việt Nam có những lĩnh vực đầu tư tiềm năng là công nghiệp dược – sinh học, tài chính ngân hàng, năng lượng sạch”.

Newtechco Group là doanh nghiệp Việt Nam duy nhất có mặt trong trong liên danh nói trên và rất đáng nói tới. Trong hành trình 10 năm hình thành và phát triển của mình, Newtechco đã luôn chú trọng đầu tư vào ngành dược – sinh học, hợp tác đầu tư vào các doanh nghiệp trong ngành dược Việt Nam và trở thành chiếc cầu nối cho hơn 35 doanh nghiệp dược trên thế giới tới Việt Nam.

Từ năm 2017, Newtechco đã bắt đầu cho những bước đầu tiên của kế hoạch đầu tư khu công nghiệp dược – sinh học và xem đây là sự chuẩn bị cho bước phát triển mới nhằm đón đầu sự dịch chuyển sản xuất của các doanh nghiệp dược phẩm thế giới đến Việt Nam. Công ty này đã hợp tác với các doanh nghiệp, nhà đầu tư lớn khác cùng tham gia thực hiện dự án. Newtechco cho hay đã có hơn 20 doanh nghiệp dược phẩm của Mỹ, Hàn Quốc, Thụy Sỹ, Đức, Ấn Độ… muốn đầu tư nhà máy sản xuất tại khu công nghiệp dược tập trung này.

Tổng mức đầu tư hạ tầng khu công nghiệp dược – sinh học sẽ khoảng 3.800 tỉ đồng, thu hút tới 80-90 doanh nghiệp sản xuất nhằm đáp ứng nhu cầu trong nước và tiến tới xuất khẩu. Khu công nghiệp dược – sinh học đặt mục tiêu thu hút đầu tư 2 tỉ đô la Mỹ. Trong đó, giai đoạn 2024-2027 thu hút 800 triệu đô la Mỹ; giai đoạn 2028-2030 sẽ thu hút 1,2 tỉ đô la Mỹ. Dự kiến năm 2025 có thể khởi công và xúc tiến đầu tư. Khi đi vào hoạt động, khu công nghiệp dược – sinh học sẽ tạo việc làm trực tiếp cho khoảng 18.000 lao động.

Bà Võ Thị Tuấn Anh, Chủ tịch Newtechco, cho biết đây sẽ là một khu công nghiệp dược – sinh học quy mô lớn, hiện đại, đồng bộ đầu tiên ở Việt Nam. Hiện các thủ tục thực hiện dự án đang được triển khai khẩn trương, đảm bảo tuân thủ các quy định, dự kiến năm 2025 có thể khởi công và xúc tiến đầu tư.

Dự án không chỉ thu hút các hãng dược phẩm, thiết bị y tế nước ngoài về Việt Nam sản xuất mà còn là cơ hội để chuyển giao công nghệ, nghiên cứu phát minh các sản phẩm sinh – dược phẩm, hướng đến xuất khẩu với giá trị cao. Đặc biệt, người dân cũng sẽ được hưởng những thành quả khoa học – công nghệ và tiếp cận dịch vụ y tế tốt với chi phí phù hợp.

Sự ra đời của Khu công nghiệp dược – sinh học tập trung đầu tiên với quy mô lớn, hiện đại và đồng bộ ở tỉnh Thái Bình còn có một ý nghĩa lớn hơn vượt ra khỏi quy mô tỉnh. Đó là đưa ra lời giải cho một bài toán khó về những thách thức của ngành dược Việt Nam trên con đường phát triển, hội nhập toàn cầu.
Lời giải cho bài toán khó của ngành dược Việt Nam

Là chứng nhân của ngành dược Việt Nam trong 60 năm qua, Phó giáo sư, Tiến sĩ Lê Văn Truyền, chuyên gia cao cấp dược học, nguyên Thứ trưởng Bộ Y tế, cho rằng công nghiệp dược Việt Nam đang đối mặt với ba thách thức.

Thứ nhất, đó là cơ sở vật chất – kỹ thuật – công nghệ còn thấp. Việt Nam mới chỉ có 17/250 nhà máy đạt GMP tiên tiến (EU, PIC/S, JAPAN, TGA…). Hơn 200 nhà máy đạt WHO GMP nhưng không có nhà máy nào được Tổ chức Y tế thế giới (WHO) tiền thẩm định (WHO pre-qualification). Điều này khiến các nhà máy không thể tham gia đấu thầu và cung cấp thuốc cho các chương trình y tế toàn cầu của WHO. “Đây là yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu, tiếp nhận chuyển giao công nghệ, sản xuất gia công và sản xuất theo hợp đồng”, ông Truyền nói.

Điều này cũng thể hiện ở một khía cạnh khác. Chẳng hạn, thị trường Nhật Bản chiếm 23,7% tổng kim ngạch xuất khẩu dược phẩm hằng năm của Việt Nam nhưng phần lớn trong giá trị dược phẩm xuất khẩu sang thị trường này đến từ các nhà máy có 100% vốn đầu tư của Nhật Bản. Họ sản xuất dược phẩm ở Việt Nam và mang về Nhật Bản.

Thứ hai, Việt Nam chưa có các khu công nghiệp dược – sinh học tập trung với một hệ sinh thái bao gồm trung tâm nghiên cứu và phát triển, thử nghiệm tương đương sinh học – sinh khả dụng, thử nghiệm lâm sàng, kiểm nghiệm, nhà máy sản xuất dược phẩm, nhà máy sản xuất bao bì đóng gói, các trung tâm cung cấp dịch vụ liên quan, đặc thù cho công nghiệp dược phẩm…

Thứ ba, về năng lực tài chính, đa số các công ty dược phẩm trong nước có quy mô nhỏ, doanh số thấp và chưa có các tập đoàn dược phẩm quy mô quốc gia, nguồn lực tài chính để đầu tư mới rất hạn chế. Đa số các công ty dược phẩm trong nước có quy mô nhỏ, với tổng vốn đầu tư xây dựng nhà máy chỉ khoảng 500-1.000 tỉ đồng, trong khi yêu cầu với nhà máy dược – sinh học cao hơn rất nhiều con số này.

Ngoài ra, hiện nay Việt Nam chưa có một loại thuốc mới nào sản xuất từ dược liệu trong nước. Giá thuốc ở Việt Nam còn cao do công nghệ chế biến và quy trình sản xuất chưa tốt.

Do già hóa dân số và chuyển đổi mô hình bệnh tật nên đã có sự thay đổi cấu trúc thị trường dược phẩm từ thuốc hóa dược sang thuốc sinh học, thuốc sinh học tương tự. Năm 2023, thuốc sinh học chiếm 17%, thuốc sinh học tương tự chiếm 13%, dự kiến vào năm 2050, hai loại thuốc này sẽ chiếm 45% thị trường dược phẩm trên thế giới.

Thế nhưng chi phí đầu tư nhà máy dược sinh học ngày càng tăng. Kéo theo đó, đội ngũ nghiên cứu và phát triển cũng phải khác. Hơn bao giờ hết, 250 nhà máy dược và hàng ngàn nhà phân phối dược ở Việt Nam phải thay đổi để đáp ứng nhu cầu thị trường và tạo lợi thế cạnh tranh cho mình.

Đại dịch Covid-19 chứng kiến sự đứt gãy của chuỗi cung ứng dược toàn cầu vì quá phụ thuộc vào Trung Quốc và Ấn Độ. Sau đại dịch, người ta càng hiểu rằng cần chăm sóc sức khỏe trước khi có bệnh.

Sau đại dịch, sự dịch chuyển đầu tư từ Trung Quốc sang các nước ASEAN mạnh hơn và Việt Nam được đánh giá là thị trường tiềm năng, có sự ổn định về kinh tế – xã hội, sự tăng trưởng ở mảng chăm sóc sức khỏe Việt Nam trong thời gian qua rất cao, ý thức chăm lo sức khỏe của người Việt Nam đang được nâng lên.

Bà Võ Thị Tuấn Anh, Chủ tịch Newtechco, cho biết nhu cầu ngày càng tăng cao của xã hội, nguy cơ dịch bệnh luôn thường trực, chuỗi cung ứng có thể bị gián đoạn. Cùng với đó, chi phí logistics tăng cao, các nguồn dược phẩm và thiết bị y tế sẽ trở nên khan hiếm, dẫn đến giá thành tăng ảnh hưởng nghiêm trọng đến công tác khám, chữa bệnh cho người dân.

“Là thị trường mới nổi, có nguồn nhân lực trẻ và chính sách thu hút đầu tư tốt, Việt Nam ngày càng thu hút các nhà sản xuất quốc tế, trong đó có cả những tập đoàn dược phẩm lớn. Thế nhưng, để thu hút được những tập đoàn dược phẩm và công nghệ sinh học đến đầu tư thì cần phải có khu công nghiệp chuyên ngành hiện đại, đồng bộ theo hướng đạt chuẩn xanh trên thế giới”, bà Tuấn Anh nói.

Trong bối cảnh phần lớn doanh nghiệp ngành dược của Việt Nam có tiềm lực tài chính thấp và phân tán tài nguyên như hiện nay thì việc xây dựng hệ sinh thái từ nghiên cứu sản phẩm, ứng dụng công nghệ mới vào sản xuất các sản phẩm dược đến phát triển các kênh phân phối rộng khắp là rất cần thiết. Chính vì vậy Newtechco đã dành nguồn lực tài chính và mời gọi nhà đầu tư quốc tế, chuyên gia công nghệ tham gia đầu tư dự án khu công nghiệp dược – sinh học tại tỉnh Thái Bình.

Cũng tại khu công nghệ dược – sinh học này, Newtechco sẽ thành lập Viện Nghiên cứu và Ứng dụng công nghệ y sinh học ung bướu. Giáo sư, Tiến sĩ Mai Trọng Khoa, nguyên Phó giám đốc Bệnh viện Bạch Mai, giữ vai trò là Viện trưởng. Ông Trọng Khoa nêu thực trạng rằng, hiện nay ở Việt Nam, hơn một nửa số ca mới mắc bệnh ung thư tử vong. Viện nghiên cứu dự kiến sẽ tập trung hơn vào mảng nghiên cứu và sản xuất thuốc điều trị các bệnh nan y như ung thư và dòng thuốc mới, góp phần thực hiện sứ mệnh nâng cao sức khỏe cộng đồng.
 

Đính kèm

  • MH-2.jpg
    MH-2.jpg
    251.5 KB · Xem: 68

Bên trên Bottom